Suy gan không ảnh hưởng đến dược động học lâm sàng của tirzepatide

Suy gan không ảnh hưởng đến dược động học lâm sàng của tirzepatide

Cơ sở và mục tiêu nghiên cứu

Tirzepatide là một chất chủ vận kép của polypeptid hướng insulin phụ thuộc glucose (GIP) và peptide giống glucagon-1 (GLP-1) đang được phát triển như một phương pháp điều trị hàng tuần tiềm năng cho bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) tuýp 2, kiểm soát cân nặng và viêm gan nhiễm mỡ không do rượu. Tác động của suy gan lên dược động học (PK) của tirzepatide được đánh giá trên những đối tượng tham gia nghiên cứu có mức độ suy gan khác nhau (có và không mắc ĐTĐ tuýp 2) so với nhóm đối chứng khỏe mạnh.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

Đây là một nghiên cứu song song, liều đơn, nhãn mở, những người tham gia nghiên cứu được phân loại theo tình trạng suy gan được xác định bằng thang điểm Child-Pugh (CP) ban đầu:

+ A (suy giảm mức độ nhẹ – giai đoạn còn bù; N = 6)

+ B (suy giảm mức độ trung bình – giai đoạn trung gian; N = 6 )

+ C (suy giảm mức độ nghiêm trọng – giai đoạn mất bù; N = 7)

+ Chức năng gan bình thường (N = 13).

Tất cả các đối tượng được chỉ định một liều tirzepatide 5 mg tiêm dưới da. Các mẫu máu được thu thập để xác định nồng độ tirzepatide trong huyết tương nhằm ước tính các thông số dược động học. Các thông số PK chính bao gồm diện tích dưới đường cong nồng độ – thời gian từ 0 đến vô cùng (AUC [0-∞]) và nồng độ thuốc tối đa ghi nhận được (Cmax) được đánh giá bằng mô hình ANCOVA. Các giá trị trung bình của bình phương tối thiểu và tỷ lệ trung bình cho mỗi nhóm, giữa mỗi mức độ suy gan so với nhóm chứng, khoảng tin cậy (CIs) tương ứng 90% được ước tính. Việc phân tích thời gian đạt nồng độ thuốc tối đa ghi nhận được (tmax) dựa trên phương pháp phi tham số. Mối quan hệ giữa các thông số dược động và các thông số phân loại CP (nồng độ albumin huyết thanh, nồng độ bilirubin toàn phần và tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế – INR) cũng được đánh giá. Các biến cố có hại được theo dõi để đánh giá tính an toàn và khả năng dung nạp thuốc.

Kết quả

Nhóm chứng và các nhóm suy gan có thông số AUC (0-∞) và Cmax tương tự nhau khi sử dụng tirzepatide. Phân tích thống kê cho thấy không có sự khác biệt về các giá trị trung bình bình phương tối thiểu của Cmax hoặc AUC (0-∞) giữa những người tham gia trong nhóm chứng và nhóm suy gan, với khoảng tin cậy CI 90% cho tỷ lệ các giá trị trung bình bình phương tối thiểu thống nhất. Không có sự khác biệt về thời gian đạt nồng độ tối đa (tmax) trung vị của tirzepatide ở tất cả các nhóm. Không có mối liên hệ đáng kể nào giữa việc sử dụng tirzepatide và điểm CP (p> 0,1 đối với Cmax, AUC [0-∞], và độ thanh thải toàn phần). Tương tự, không có mối liên hệ lâm sàng nào giữa việc sử dụng tirzepatide với nồng độ albumin huyết thanh, nồng độ bilirubin toàn phần, hoặc tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế. Giá trị trung bình bình phương tối thiểu của thời gian bán thải (t1/2) cũng tương tự giữa nhóm chứng và nhóm suy gan. Không ghi nhận sự khác biệt đáng kể nào về tính an toàn giữa các đối tượng bệnh nhân suy gan và các đối tượng khỏe mạnh.

Kết luận

Dược động học của Tirzepatide ở các đối tượng bệnh nhân có phân độ suy gan khác nhau không khác biệt so với nhóm đối tượng khỏe mạnh. Do đó, những người tham gia nghiên cứu được điều trị với tirzepatide mắc kèm suy gan có thể không cần điều chỉnh liều.

Số đăng ký thử nghiệm lâm sàng: NCT03940742

Được hỗ trợ bởi: Eli Lilly and Company Disclosure: C. Loghin: Employment/Consultancy; Eli Lilly and Company. Stock/Shareholding; Eli Lilly and Company.

Dịch giả: BS Nguyễn Thu Trang, DS. Nguyễn Thị Cẩm Trâm

Loghin et al, Hepatic impairment has no impact on the clinical pharmacokinetics of tirzepatide. EASD 2021

 

Chia sẻ bài viết