Nguy cơ viêm cơ tim sau khi dùng liều liên tiếp vắc-xin COVID-19 và nhiễm SARS-CoV-2 theo tuổi và giới tính

Nguy cơ viêm cơ tim sau khi dùng liều liên tiếp vắc-xin COVID-19 và nhiễm SARS-CoV-2 theo tuổi và giới tính

Dịch giả: Phạm Thị Thu Uyên

Hiệu đính: Phạm Duy Tú Anh

Từ viết tắt Ý nghĩa
CI Confidence Interval (Khoảng tin cậy)
IRR Incidence Rate Ratios (Tỉ số nguy cơ mắc bệnh)
SD Standard Deviation (Độ lệch chuẩn)

179

Tổng quan: Viêm cơ tim sau khi nhiễm hội chứng hô hấp cấp tính nặng coronavirus 2 phổ biến hơn sau khi tiêm vắc-xin COVID-19, nhưng rủi ro ở những người trẻ và sau khi tiêm các liều vắc-xin liên tiếp ít chắc chắn hơn. Các phân tích bổ sung được phân tầng theo độ tuổi và giới tính rất quan trọng vì các chiến dịch vắc-xin đang được mở rộng nhanh chóng để bao phủ cả trẻ em và thanh niên.

Phương pháp:

  • Thiết kế và giám sát nghiên cứu: Thiết kế ca bệnh tự kiểm soát. Các phân tích có điều kiện đối với từng trường hợp, do đó, bất kỳ đặc điểm cố định nào trong thời gian nghiên cứu, chẳng hạn như giới tính, dân tộc hoặc tình trạng mãn tính, đều được kiểm soát. Tuổi được coi là một biến cố định vì thời gian nghiên cứu ngắn. Bất kỳ yếu tố thay đổi theo thời gian nào, chẳng hạn như thay đổi theo mùa, cần được điều chỉnh trong các phân tích. Việc nhập viện có thể bị ảnh hưởng bởi áp lực đối với hệ thống y tế do COVID-19, không đồng nhất trong thời gian nghiên cứu đại dịch. Để tính đến những tác động cơ bản theo mùa này, chúng tôi chia thời gian quan sát nghiên cứu thành các tuần và điều chỉnh theo tuần như một biến nhân tố trong các mô hình thống kê.
  • Đối tượng và thời gian nghiên cứu: Người trên 13 tuổi đã tiêm vắc-xin COVID-19 ở Anh từ 01/12/2020 – 15/12/2021
  • Kết quả: Kết quả chính được quan tâm là lần nhập viện đầu tiên do viêm cơ tim hoặc tử vong liên quan đến viêm cơ tim trong thời gian nghiên cứu.
  • Phơi nhiễm: Các yếu tố phơi nhiễm là liều thứ nhất, thứ hai hoặc liều tăng cường của vắc-xin ChAdOx1, BNT162b2 hoặc mRNA-1273 và tình trạng nhiễm SARS-CoV-2, được xác định là xét nghiệm dương tính với SARS-CoV-2 đầu tiên trong giai đoạn nghiên cứu. Tất cả các yếu tố phơi nhiễm đều được đưa vào cùng một mô hình. Các khoảng thời gian rủi ro phơi nhiễm là các khoảng thời gian được chỉ định trước sau: 0, 1 đến 7, 8 đến 14, 15 đến 21 và 22 đến 28 ngày sau mỗi ngày phơi nhiễm, với giả định rằng các sự kiện bất lợi liên quan đến phơi nhiễm đang được xem xét khó có thể xảy ra muộn hơn 28 ngày sau khi phơi nhiễm.. Để tránh các giai đoạn rủi ro chồng chéo, giả định rằng những lần phơi nhiễm sau được ưu tiên hơn những lần trước, ngoại trừ khoảng thời gian trước rủi ro từ 1 đến 28 ngày đối với liều thứ hai hoặc liều nhắc lại. Xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính được coi là một trường hợp phơi nhiễm riêng biệt trong các mô hình, điều này cho phép các cửa sổ rủi ro trùng lặp với trường hợp tiếp xúc với vắc-xin.

Kết quả:

Trong 42.842.345 người đã tiêm ít nhất 1 mũi vắc-xin, có 21.242.629 người đã được tiêm 3 mũi và 5.934.153 người đã nhiễm SAR-CoV-2 trước hoặc sau khi tiêm vắc-xin. Viêm cơ tim xảy ra ở 2861 người (0,007%), với 617 trường hợp trong 1 đến 28 ngày sau khi tiêm phòng.

 

Bảng 2.    Đặc điểm lâm sàng và nhân khẩu học của bệnh nhân nhập viện vì viêm cơ tim trong vòng 1 đến 28 ngày sau khi tiêm vắc xin COVID-19 liều đầu tiên, liều thứ hai và liều tăng cường hoặc nhiễm SARS-CoV-2 trong nhóm dân số đã được tiêm vắc-xin ở Anh từ tháng 01/12/2020 đến 15/12/2021.

Nguy cơ viêm cơ tim trong 1 đến 28 ngày đã tăng sau liều ChAdOx 1 đầu tiên (tỉ số nguy cơ mắc bệnh, 1.33 [95%CI, 1.09 – 1.62]) và liều đầu tiên, liều thứ hai và liều tăng cường của BNT162b2 (1.52 [95% CI, 1.24 – 1.85], 1.57 [95% CI, 1.28 – 1.92], và 1.72 [95% CI, 1.33 – 2.22]) nhưng thấp hơn so với sau khi dương tính với SAR-CoV2 trước hoặc sau khi tiêm vắc-xin (11.14 [95% CI, 8.64 – 14.36] và 5.97 [95% CI, 4.54 – 7.87]). Nguy cơ viêm cơ tim cao hơn trong 1 đến 28 ngày sau mũi mRNA-1273 thứ hai (11.76 [95% CI, 7.25–19.08]) và duy trì sau mũi tăng cường (2.64 [95% CI, 1.25–5.58]).

Bảng 3.  Tỷ số nguy cơ mắc bệnh (IRR [95% CI]) cho phân tích chính và theo nhóm tuổi (40 tuổi trở lên, dưới 40 tuổi) và giới tính (nữ, nam) đối với bệnh viêm cơ tim trong các giai đoạn rủi ro được xác định ngay trước và sau khi tiếp xúc với vắc-xin và trước và sau khi có kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính, được điều chỉnh theo lịch từ ngày 1/12/2020 đến ngày 15/12/2021 (nếu 1 hoặc không có sự kiện nào, IRR chưa được ước tính và báo cáo là n/a).

Liên quan mạnh mẽ hơn ở nam giới dưới 40 tuổi với tất cả các loại vắc-xin. Ở nam giới dưới 40 tuổi, số ca viêm cơ tim gia tăng trên 1 triệu người sau liều mRNA-1273 thứ hai cao hơn so với sau khi xét nghiệm SARS-CoV-2 dương tính (97 [95% CI, 91–99] so với 16 [95% CI, 12–18]). Ở phụ nữ dưới 40 tuổi, số ca viêm cơ tim gia tăng trên 1 triệu người là như nhau sau khi tiêm liều thứ hai mRNA-1273 và xét nghiệm dương tính (7 [95% CI, 1–9] so với 8 [95% CI, 6–8]).

Bảng 4. Đo lường tác động của việc tiêm chủng và lây nhiễm SARS-CoV-2 được trình bày dưới dạng các biến cố gia tăng trên 1 triệu người tiếp xúc.

Kết luận: Nhìn chung, nguy cơ viêm cơ tim sau khi nhiễm SARS-CoV-2 cao hơn so với sau khi tiêm vắc-xin COVID-19 và duy trì ở mức vừa phải sau các liều liên tiếp bao gồm một liều tăng cường của vắc-xin mRNA BNT162b2. Tuy nhiên, nguy cơ viêm cơ tim sau khi tiêm phòng cao hơn ở nam giới trẻ tuổi, đặc biệt là sau khi tiêm vắc-xin mRNA-1273 liều thứ hai.

 

Tài liệu tham khảo: Patone, Martina, et al. “Risk of myocarditis after sequential doses of COVID-19 vaccine and SARS-CoV-2 infection by Tuổiand sex.” Circulation 146.10 (2022): 743-754. (https://www.ahajournals.org/doi/suppl/10.1161/CIRCULATIONAHA.122.059970)

 

Chia sẻ bài viết