Phép đo dựa trên CGM dành cho lượng insulin icodec mỗi tuần một lần so với lượng insulin glargine U100 mỗi ngày một lần ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 được điều trị bằng insulin: phân tích hậu kiểm

Phép đo dựa trên CGM dành cho lượng insulin icodec mỗi tuần một lần so với lượng insulin glargine U100 mỗi ngày một lần ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 được điều trị bằng insulin: phân tích hậu kiểm

Tác giả: H.S. Baja et al

Bối cảnh và mục tiêu:

Insulin icodec (icodec) là một loại insulin nền dùng một lần mỗi tuần trong giai đoạn phát triển lâm sàng. Tại giai đoạn 2 trong thử nghiệm điều trị theo mục tiêu ở bệnh nhân tiểu đường loại 2 (T2D) khi chuyển từ sử dụng insulin hàng ngày (N = 154), icodec với liều tải ban đầu 100% (LD;  tăng gấp đôi liều đầu tiên) cho thấy khoảng thời gian tác dụng lớn hơn trong phạm vi (TIR, 3,9-10 mmol / L) so với lượng insulin glargine U100 (IGlar U100)  dùng hằng ngàyở tuần 15 & 16 (chỉ tiêu chính), khi được đo bằng glucose liên tục Dexcom G6® theo  dõimù đôi (CGM).

Vật liệu và phương pháp:

Phương pháp phân tích so sánh TIR hậu kiểm (post hoc analysis) này, sử dụng thời gian trên khoảng (TAR,> 10 mmol / L) và dưới khoảng (TBR, <3.9 và <3.0 mmol / L) đối với icodec LD và icodec không  liều tải (NLD) so với IGlar U100, được tính toán bằng cách sử dụng dữ liệu CGM từ quá trình sàng lọc 2 tuần và điều trị 16 tuần.

Kết quả:

Qua 16 tuần, tổng thể quan sát được TIRs trung bình là 71.4% đối với icodec LD, 60.7% đối với icodec NLD và 64.3% đối với IGlar U100. TBR<3.9mmol/L và TBR<3.0mmol/L vẫn thấp hơn chỉ tiêu khuyến cáo quốc tế (tương ứng <4% và <1%) ở tất cả các nhóm trong 16 tuần.  Ở tuần 15 & 16, tỷ lệ bệnh nhân đạt được sự kết hợp giữa >70% TIR và <4% TBR<3.9mmol/L là 64.2% đối với icodec LD, 40.0% đối với icodec NLD và 45.8% đối với IGlar U100.  Icodec LD đã ngăn chặn sự gia tăng nhất thời của TAR quan sát được trong quá trình hoán đổi với icodec NLD và đồng thời dẫn đến TAR thấp hơn IGlar U100 trong suốt khoảng thời gian điều trị 16 tuần.

Kết luận:

Nhìn chung, việc chuyển sang icodec LD dường như dẫn đến giá trị TIR cao hơn và TAR thấp hơn IGlar U100 qua 16 tuần. Trong khi đó, TBR vẫn nằm trong chỉ tiêu được khuyến nghị.

Hình: TAR (> 10 mmol / L) và TIR (3.9–10 mmol / L) cho insulin icodec LD, insulin icodec NLD và insulin glargine U100 trong suốt nghiên cứu, cách nhau 14 ngày (2 tuần).  Bộ phân tích đầy đủ.  Dữ liệu quan sát.  Dữ liệu là giá trị trung bình (ký hiệu) ± sai số chuẩn đến giá trị trung bình (thanh lỗi).  Những đường chấm thể hiện mục tiêu được đề xuất là >70% đối với TIR và <25% đối với TAR.

Mã đăng ký thử nghiệm lâm sàng: NCT03922750

 

Credit: Phạm Thanh Ngân – Nhóm Pharmavn.org

Hiệu đính: Nguyễn Minh Huy – Nhóm Pharmavn.org

Nguồn: EASD 2021

Chia sẻ bài viết