Kết quả hỗn hợp trong nghiên cứu mới về ung thư phổi của Roche

Kết quả hỗn hợp trong nghiên cứu mới về ung thư phổi của Roche

Roche hôm thứ Tư cho biết một sự kết hợp hai loại thuốc bao gồm một liệu pháp chặn điểm kiểm soát miễn dịch mới nhưng vẫn đang trong quá trình thực nghiệm có tác dụng làm chậm đáng kể sự tiến triển của khối u trong một nghiên cứu ở giai đoạn giữa của bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ

Tuy nhiên, phản ứng với kết quả này có thể khá im ắng, vì phương pháp điều trị kết hợp mới – tiragolumab cộng với Tecentriq – chỉ cho thấy lợi ích có ý nghĩa trong một tập hợp con của bệnh nhân ung thư phổi. Điều đó khiến nó không có khả năng cạnh tranh với liệu trình kết hợp thuốc Keytruda-hóa trị có tính năng vươt trội của Merck.

Roche công bố kết quả nghiên cứu đầy đủ đồng thời với việc phát hành bản tóm tắt nghiên cứu cho hội thảo thường niên của Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO).

Tiragolumab là một trong những loại thuốc được theo dõi chặt chẽ nhất trong nhóm nghiên cứu và phát triển liệu pháp miễn dịch ung thư của Roche. Nó là một kháng thể có thể tiêm được, có tác dụng ức chế một protein điểm kiểm soát miễn dịch mới có tên là TIGIT được tìm thấy trên bề mặt của các tế bào miễn dịch.

Các thuốc ức chế điểm kiểm soát khác với cơ chế ngăn chặn các protein khác như PD-1, CTLA-4 và PD-L1 – đã trở thành liệu pháp chăm sóc tiêu chuẩn cho một loạt các khối u rắn. Keytruda của Merck và Opdivo của Bristol Myers Squibb (chất ức chế PD-1) được sử dụng rộng rãi nhất, đem lại 11,1 tỷ USD và 7,2 tỷ USD doanh thu năm ngoái, tương ứng. Roche’s Tecentriq (chất ức chế PD-L1) đứng thứ ba, với doanh thu năm 2019 là 1,9 tỷ USD.

Cơ sở lý luận của Roche để phát triển tiragolumab dựa trên giả thuyết khoa học rằng việc ngăn chặn hai protein điểm kiểm soát trên các tế bào miễn dịch – TIGIT và PD-L1 – sẽ hiệu quả hơn trong việc tiêu diệt khối u thay vì chỉ chặn một điểm, có khả năng mang lại lợi ích lớn hơn với một phạm vi rộng các bệnh nhân ung thư. Alan Sandler, người đứng đầu toàn cầu về phát triển sản phẩm ung thư tại chi nhánh Genentech của Roche cho biết.

Trong nghiên cứu giai đoạn 2 có tên là CITYSCAPE, 135 bệnh nhân mới được chẩn đoán, ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được chọn ngẫu nhiên để điều trị bằng tiragolumab cộng với Tecentriq hoặc giả dược cộng với Tecentriq. Khi nghiên cứu được phân tích, tiragolumab / Tecentriq đã giảm 43% nguy cơ tiến triển khối u hoặc tử vong so với chỉ riêng Tecentriq. Thời gian sống của bênh nhân có khối u không tiến triển trung bình là 5,4 tháng so với 3,6 tháng.

Tỷ lệ đáp ứng chung cho tiragolumab / Tecentriq là 31,3% so với 16,2% cho riêng Tecentriq.

80% bệnh nhân sử dụng kết hợp tiragolumab đã báo cáo tác dụng phụ so với 72% bệnh nhân sử dụng Tecentriq đơn độc, nhưng số bệnh nhân ở nhóm sử dụng thuốc kết hợp rút khỏi nghiên cứu do độc tính lại ít hơn.

Trong khi nghiên cứu đạt được cả hai mục tiêu hiệu quả quan trọng, mức độ lợi ích được báo cáo với điều trị kết hợp không có ý nghĩa lâm sàng khi so sánh với các nghiên cứu ung thư phổi được thực hiện trước đây của Tecentriq đơn trị liệu. Dữ liệu mới cũng tương đối tệ hơn so với các nghiên cứu về ung thư phổi của các thuốc cạnh tranh khác trong nhóm các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch, bao gồm Keytruda của Merck.

Kết quả đáng thất vọng này đã thôi thúc Roche kiểm tra lại nghiên cứu CITYSCAPE, tập trung vào 40% bệnh nhân có khối u phổi biểu hiện mức độ cao PD-L1, được đo bằng xét nghiệm chẩn đoán tiêu chuẩn. Và kết quả đã được cải thiện.

Sự kết hợp giữa tiragolumab và Tecentriq giúp giảm 67% nguy cơ tiến triển khối u hoặc tử vong so với Tecentriq đơn độc. Sự sống sót không tiến triển trung bình của liệu pháp kết hợp đã không đạt được. Tỷ lệ đáp ứng cũng cao hơn đáng kể: 55% cho tiragolumab / Tecentriq so với 17% cho Tecentriq .

Khi một nhóm bệnh nhân biểu hiện tốt hơn rõ rang thì những bệnh nhân còn lại thường rơi vào tình trạng tệ hơn, đó là điều đã xảy ra với nghiên cứu của Roche. Đối với 60% bệnh nhân ung thư phổi với mức độ thấp của PD-L1, liệu pháp tiragolumab / Tecentriq kết hợp là hầu như không có hiệu quả, giảm nguy cơ tiến triển của bệnh hoặc tử vong chỉ có 15% so với Tecentriq đơn độc.

“Xác định đúng phương pháp điều trị phù hợp với từng đối tượng bệnh nhân là rất quan trọng”, Sandler nói. “Trong khi tất cả các dữ liệu từ nghiên cứu vẫn đang hoàn thiện, nhưng sự tác động đáng kể lên các bệnh nhân biểu hiện cao [PD-L1] là rất rõ rang.

Các protein điểm kiểm soát miễn dịch khác được phát hiện gần đây, bao gồm IDO, OX40 và Lag3, đã cho thấy dữ liệu đáng khích lệ tương tự ban đầu trong quá trình phát triển lâm sàng, nhưng vấp phải trở ngại hoặc thất bại khi được kiểm tra trong các thử nghiệm lâm sàng lớn hơn, đặc biệt là những thử nghiệm có nhóm đối chứng.

Nina Bhardwaj, một bác sĩ và là người điều hành của liệu pháp miễn dịch tại Viện Ung thư Tisch ở New York, cho biết TIGIT có thể là mục tiêu kiểm soát miễn dịch tiếp theo và tiềm năng nhất vì sự ức chế điểm kiểm soát miễn dịch này kích hoạt tế bào T và tế bào tiêu diệt tự nhiên, hay tế bào NK. Protein này cũng được biểu hiện cao trên các loại khối u khác nhau, bao gồm ung thư phổi, bàng quang và cổ tử cung.

“Những dữ liệu này rất hấp dẫn và đang đi đúng hướng. Tôi đặc biệt thích mục tiêu kiểm soát miễn dịch này”, cô nói. Bhardwaj không tham gia vào nghiên cứu tiragolumab.

Dựa trên những phát hiện này, Roche đang thúc đẩy sự kết hợp tiragolumab-Tecentriq vào các thử nghiệm lâm sàng phức hợp giai đoạn 2 và giai đoạn 3 liên quan đến bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư cổ tử cung.

Merck, Bristol Myers, Compugen và Arcus BioScience đều đang phát triển các loại thuốc nhắm mục tiêu TIGIT của riêng họ.

 

Biên dịch

Lê Thị Hằng Nga

TS. Nguyễn Thị Thanh Vân

Nguồn: https://www.statnews.com/2020/05/13/roches-novel-checkpoint-inhibitor-delivers-mixed-results-in-new-lung-cancer-study/

Chia sẻ bài viết