“KHÁNG -KHÁNG SINH” CHO PHÉP SỬ DỤNG KHÁNG SINH MÀ KHÔNG GÂY KHÁNG THUỐC

“KHÁNG -KHÁNG SINH” CHO PHÉP SỬ DỤNG KHÁNG SINH MÀ KHÔNG GÂY KHÁNG THUỐC

Cholestyramine-một loại thuốc giá thành thấp được FDA công nhận, khi kết hợp với kháng sinh có thể ngăn chặn kháng-kháng sinh, theo nghiên cứu mới của các nhà khoa học ở Đại học Penn State và Đại học Michigan.

“Kháng – kháng sinh là một vấn đề nghiêm trọng, điều này dẫn đến cái chết cho nhiều người dù bị nhiễm khuẩn thông thường” dẫn lời Andrew Read, Giám đốc của Viện Huck về Khoa học Đời sống thuộc Đại học Penn State, “rất nhiều kháng sinh quan trọng của chúng ta đang thất bại và chúng ta đang bắt đầu hết sự lựa chọn. Chúng tôi đã tạo ra  trị liệu giúp ích trong cuộc chiến chống lại sự kháng thuốc diệt khuẩn, ‘kháng- kháng sinh’ cho phép trị liệu bằng kháng sinh mà không thúc đẩy sự tiến hóa và dẫn đến sự kháng thuốc”

Theo Valerie Morley,  nghiên cứu sau tiến sĩ ở  Viện Huck, một nguyên nhân quan trọng của nhiễm trùng kháng- kháng sinh là cầu khuẩn đường ruột kháng vancomycin [VR] Enterococcus faecium.

“Cầu khuẩn đường ruột là một mầm bệnh cơ hội, truyền nhiễm vào đường tiêu hóa của con người và lây lan qua đường phân-miệng”, “Vi khuẩn không có triệu chứng trong ruột nhưng có thể gây ra nhiễm trùng nghiêm trọng, như là nhiễm trùng huyết và viêm nội mạc, khi được đưa vào các mạch máu và tủy sống”

Daptomycin là một trong số ít những kháng sinh duy trì điều trị nhiễm VR E. faecium nhưng VR E. faecium cũng nhanh chóng trở nên kháng daptomycin. Daptomycin được tiêm tĩnh mạch để điều trị nhiễm khuẩn VR E. faecium. Kháng sinh hầu hết được thải trừ qua thận, nhưng 5-10% liều đi vào ruột, nơi thúc đẩy sự kháng thuốc.

Để kiểm tra việc điều trị bằng daptomycin có thật sự làm tăng VR E. faecium kháng daptomycin, nhóm nghiên cứu đã cấy những chủng VR E. faecium nhạy cảm daptomycin vào chuột qua đường uống. Bắt đầu một ngày sau khi cấy, các nhà nghiên cứu cho chuột sử dụng liều daptomycin tiêm dưới da hàng ngày, cho uống hoặc kiểm soát tiêm giả trong 5 ngày. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng một loạt các liều và đường dùng có kiểm soát, bao gồm các liều tương tự như liều dùng lâm sàng ở người, để tối đa hóa khả năng quan sát sự xuất hiện kháng thuốc. Tiếp đó, họ thu mẫu phân từ những chú chuột để đo lường sự phát tán của VR E.f vào trong môi trường và xác định độ nhạy cảm daptomycin của VR E.f hiện diện trong mẫu phân.

Các nhà nghiên cứu tìm ra rằng chỉ có liều cao nhất của daptomycin làm giảm VR E.f trong phân xuống thấp hơn giới hạn phát hiện, trong khi liều thấp hơn dẫn đến sự đào thải VR E. f. Từ các vi khuẩn đã được thải ra, nhóm nghiên cứu tìm thấy chỉ có một chủng bị mắc một đột biến trong gen mà trước đó đã được mô tả liên quan đến kháng daptomycin, trong khi mắc các đột biến khác thì không có liên hệ đến kháng daptomycin.

“Thí nghiệm của chúng tôi chỉ ra rằng kháng daptomycin có thể làm cho E. f phát triển lên xâm chiếm đường tiêu hóa và có thể làm xuất hiện nhiều đột biến gen” dẫn lời Morley.

Nhóm nghiên cứu cũng quan sát thấy rằng vi khuẩn kháng daptomycin được đào thải kể cả khi daptomycin được tiêm dưới da.

Cuối cùng, nhóm nghiên cứu xem xét liệu rằng uống cholestyamin – một hợp chất được FDA chấp nhận – có thể giảm hoạt tính của daptomycin trong đường tiêu hóa và ngăn chặn sự E. f  kháng daptomycin trong ruột. Họ thấy rằng cholestyramin làm giảm VR E. f kháng daptomycic trong phân của chuột lên đến 80 lần.

Amit Pai, giáo sư và chủ nhiệm Khoa Lâm sàng Pharmacy, Đại học Michigan, cũng lưu ý rằng không có chiến lược mới nào được phát triển để giảm tình trạng kháng thuốc ngoài việc sử dụng liệu pháp phối hợp, phát triển vắc-xin cho bệnh nhiễm trùng đường hô hấp trên và dưới và đơn giản là giảm việc sử dụng kháng sinh không cần thiết.

Biên dịch:

Phạm Văn Thông

TS. Nguyễn Thị Thanh Vân

Tài liệu tham khảo

[1] Penn State. ‘Anti-antibiotic’ allows for use of antibiotics without driving resistance. Sciencedaily. 3-12-2020.

[2] Valerie J Morley et al. An adjunctive therapy administered with an antibiotic prevents enrichment of antibiotic-resistant clones of a colonizing opportunistic pathogen. eLife, 9, 2020. DOI: 10.7554/eLife.58147

[3] image: newatlas.com

 

Chia sẻ bài viết