Liraglutide có thể giảm viêm động mạch cảnh ở BN ĐTĐ có CVD

liraglutide-tieu-duong-viem-dong-mach-canh

Liraglutide có thể giảm viêm động mạch cảnh ở BN ĐTĐ có CVD

Liraglutide và chứng viêm mạch máu ở bệnh đái tháo đường tuýp 2 được đánh giá bởi FDG-PET/CT: một nghiên cứu của LiraFlame.

Biên dịch: Nguyễn Thanh Huyền

Pharmavn.org

Bối cảnh và mục tiêu:

Cơ chế đằng sau việc bảo vệ tim mạch ở bệnh đái tháo đường type 2 (T2D) được quan sát thấy với chất chủ vận thụ thể peptide giống glucagon-1 (GLP-1 RA) vẫn chưa được biết rõ. Chúng tôi đã chứng minh được rằng việc điều trị với GLP-1 RA Liraglutide có tác dụng tích cực đối với chứng viêm mạch máu.

Phương pháp nghiên cứu:

Trong một thử nghiệm mù đôi, chúng tôi đã chỉ định ngẫu nhiên 102 bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 nhận Liraglutide với liều lên tới 1.8 mg hoặc giả dược mỗi ngày một lần trong vòng 26 tuần. Kết quả chính thu được là đánh giá 18F-fluorodeoxyglucose (18F-FDG) PET/CT cho sự thay đổi của tình trạng viêm mạch máu. Sự hấp thu FDG của động mạch cảnh và động mạch chủ được định lượng theo tỉ lệ mục tiêu/nền (target to background ratio – TBR) bằng cách sử dụng sự hấp thu máu tĩnh mạch làm nền. Phân tích phân đoạn hoạt động (active segment analysis) chỉ bao gồm các đoạn mạch có TBR>1.6 là điểm cuối chính và hầu hết các phân tích phân đoạn bệnh (diseased segment analysis) là điểm cuối phụ.

Kết quả:

Tuổi trung bình là 66.4 tuổi (SD 8.2) và 16% là nữ; thời gian mắc bệnh đái tháo đường trung bình là 10.9 năm [5.7; 18.2] HbA1c trung bình là 58.4 (10.1) mmol/mol; 17% bệnh nhân có tiền sử bệnh tim mạch (CVD). 96% bệnh nhân đã trải qua PET/CT cả tuần đầu và tuần 26. Các đặc điểm cơ bản là cân bằng giữa 2 nhóm.

  • Liraglutide làm giảm đáng kể HbA1c [thay đổi có nghĩa giữa Liraglutide vs. giả dược (95% CI): -5.1 (-8.0; -2.0) vs. -0.1 (-1.9; 1.7) mmol/mol, (p=0.006) và cân nặng [-3.7 (-4.8; -2.6) vs -0.2 (-0.8; 0.4) kg, (p<0.001)].
  • LDL-cholesterol và huyết áp tâm thu không thay đổi (p≥0.40). Tình trạng viêm mạch máu không thay đổi ở động mạch cảnh lẫn động mạch chủ (TBR có nghĩa thay đổi giữa Liraglutide vs. giả dược (95% CI): -0.04 (-0.17; 0.08) vs -0.09 (-0.19; 0.01) ở phân đoạn hoạt động (p=0.53) và -0.22 (-0.40; 0.03) vs -0.24 (-0.44; 0.04) ở hầu hết phân đoạn bệnh (p=0.87); phân tích cấu trúc lại động mạch cảnh cho kết quả tương tự với phân tích phân đoạn hoạt động (p=0.96) và hầu hết phân đoạn bệnh (p=0.62).
  • Phân tích khám phá so sánh sự thay đổi của tình trạng viêm động mạch cảnh ở nhóm bệnh nhân có CVD (n=17) và nhóm không có CVD (n=81).
  • Ở nhóm bệnh nhân có CVD nhận Liraglutide biểu hiện sự giảm rõ rệt tình trạng viêm động mạch cảnh so với nhóm bệnh nhân không có CVD [-0.59 (-1.23; 0.05) vs -0.13 (-0.30; 0.04), p=0.04] ở hầu hết phân tích phân đoạn bệnh. Sự khác biệt này không được quan sát thấy ở nhóm nhận giả dược [-0.17 (-1.17; 0.84) vs -0.30 (-0.49; -0.12), p=0.62]. Hơn nữa, một tương tác gần như có ý nghĩa thống kê  (p=0.06) giữa nhóm điều trị và tiền sử CVD đã được chứng minh để dự đoán sự thay đổi của tình trạng viêm động mạch cảnh.

Kết luận:

Bệnh nhân có nguy cơ thấp hay trung bình, Liraglutide không làm thay đổi tỷ lệ viêm mạch máu, nhưng có thể làm giảm viêm động mạch cảnh ở người bệnh đái tháo đường có bệnh tim mạch.

Tin từ Hội nghị tiểu đường Châu Âu EASD 2020

Thumbnail pic at verywell health

Chia sẻ bài viết