Upadacitinib vs Abatacept trong điều trị Viêm khớp dạng thấp

upadacitinib-viem-khop-dang-thap

Upadacitinib vs Abatacept trong điều trị Viêm khớp dạng thấp

Biên dịch: Hồ Thủy Tiên, TS.DS. Phạm Đức Hùng

Tổng quan

Upadacitinib (đường uống) là một chất ức chế Janus kinase (JAK) chọn lọc, dùng điều trị viêm khớp dạng thấp. Hiệu quả và độ an toàn của upadacitinib so với abatacept (một chất điều biến đồng kích hoạt tế bào T) trên bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp đề kháng với các loại DMARDS sinh học được làm rõ hơn trong nghiên cứu dưới đây.

Phương pháp nghiên cứu

Thử nghiệm pha 3, mù đôi, có đối chứng kéo dài 24 tuần, bệnh nhân được phân phối ngẫu nhiên theo tỷ lệ 1:1 vào 2 nhóm:

  • Upadacitinib đường uống (15mg một lần mỗi ngày) + DMARDs tổng hợp: 303 bệnh nhân
  • Abatacept tiêm tĩnh mạch + DMARDs tổng hợp: 309 bệnh nhân

Kết cục chính là sự thay đổi so với giá trị nền trong Thang điểm hỗn hợp đánh giá mức độ hoạt động bệnh viêm khớp dạng thấp sử dụng 28 khớp dựa trên mức protein phản ứng C (DAS28-CRP), ở tuần thứ 12, khả năng không kém hơn được đánh giá.

Giá trị DAS28-CRP trong khoảng, 0 đến 9,4; với điểm cao hơn cho thấy bệnh hoạt động mạnh hơn

Vào tuần thứ 12, các kết cục phụ là khả năng ưu việt của upadacitinib so với abatacept, khi so sánh sự thay đổi so với giá trị nền trong thang DAS28-CPR và tỷ lệ bệnh nhân có thuyên giảm về mặt lâm sàng theo thang DAS28-CRP dưới 2,6.

upadacitinib-abatacept-viem-khop-dang-thap

Kết quả nghiên cứu

  • Từ các giá trị DAS28-CPR nền là 5,70 ở nhóm sử dụng upadacitinib và 5,88 ở nhóm sử dụng abatacept, giá trị trung bình thay đổi ở tuần 12 theo thứ tự là -2,52 và -2,00 (chênh lệch −0,52 điểm; khoảng tin cậy, −0,69 đến −0,35; P <0,001 đối với khả năng không kém hơn; P <0,001 đối với khả năng ưu việt).
  • Tỷ lệ bệnh nhân thuyên giảm là 30,0% với upadacitinib và 13,3% với abatacept (chênh lệch, 16,8 phần trăm; khoảng tin cậy 95% Cl, 10,4 đến 23,2; P <0,001 đối với khả năng ưu việt).
  • Trong khoảng thời gian điều trị, có một trường hợp tử vong, một trường hợp đột quỵ không tử vong, và hai biến cố thuyên tắc tĩnh mạch xảy ra ở nhóm upadacitinib, và nhiều bệnh nhân ở nhóm upadacitinib có tăng men gan so với nhóm abatacept.

Kết luận

Với các bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp đề kháng các loại DMARDS sinh học, upadacitinib ưu việt hơn so với abatacept khi so sánh sự thay đổi so với giá trị nền trong thang đánh giá DAS28-CRP và đạt được sự thuyên giảm ở tuần thứ 12 nhưng có liên quan đến các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn. Cần có các thử nghiệm dài hơn và lớn hơn để xác định hiệu quả và độ an toàn của upadacitinib trên bệnh nhân viên khớp dạng thấp.

Tài liệu tham khảo

https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMoa2008250?query=featured_home

 

Chia sẻ bài viết