Tuyến tụy sinh học: Bước tiến gần hơn đến việc phân phối insulin hoàn toàn tự động?

Tuyến tụy sinh học: Bước tiến gần hơn đến việc phân phối insulin hoàn toàn tự động?

Tuyến tuỵ nhân tạo sinh học iLet (iLet Bionic Pancreas – Beta Bionic) chỉ dành cho nghiên cứu insulin giúp làm giảm A1c mà không làm tăng nguy cơ hạ đường huyết ở người lớn và trẻ em mắc ĐTĐ tuýp 1. Thiết bị này có khả năng tự động hóa cao hơn so với các hệ thống tuyến tụy nhân tạo giúp phân phối insulin hoặc vòng kín hydrid (hybrid closed-loop) hiện có.

Các kết quả từ thử nghiệm pivotal đa trung tâm tuyến tụy sinh học chỉ có insulin đã được trình bày trong hội nghị chuyên đề kéo dài 1 giờ vào ngày 3 tháng 6 tại Phiên họp khoa học lần thứ 82 của Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA).

Hệ thống phân phối insulin tự động bao gồm một máy bơm insulin, một hệ thống theo dõi đường huyết liên tục (CGM) và một phần mềm thuật toán giúp kết nối hai thiết bị. Thử nghiệm pivotal của iLet là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) lớn nhất từ trước đến nay của bất kỳ hệ thống phân phối insulin tự động nào. Bên cạnh đó, thử nghiệm này cũng thu nhận được đa dạng hơn những người mắc ĐTĐ tuýp 1, bao gồm nhiều người từ các nhóm thiểu số và những người có mức A1c cơ bản cao hơn so với các thử nghiệm trước đó.

Dữ liệu đã được đệ trình lên Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA). Trước đó, FDA đã phê duyệt cho iLet một thiết bị đột phá (breakthrough device) vào tháng 12 năm 2019.

iLet khác với các hệ thống tuyến tụy nhân tạo hiện có trên thị trường (như máy bơm insulin Medtronic 670G, máy bơm insulin Tandem t:slim X2 với công nghệ Control ‑ IQ và Omnipod 5) ở chỗ người dùng chỉ nhập trọng lượng cơ thể để khởi động hệ thống mà không cần chạy thử (run-in period) trước khi tự động hóa. Người dùng báo cáo về bữa ăn theo ba mức số lượng, không tính carbs hoặc nhập các cài đặt toán học khác nhau được yêu cầu cho việc định lượng insulin.

“Các hệ thống khác cần khá nhiều giai đoạn khởi tạo ban đầu trong khi hệ thống này có thể tự động cung cấp insulin mọi lúc. Dữ liệu đầu vào chỉ là thông tin về các bữa ăn điển hình, hoặc nhiều hơn hoặc ít hơn bình thường. Hệ thống sẽ thích nghi. Đối với hầu hết mọi người, hệ thống này có khả năng làm giảm bớt gánh nặng.” – Theo đồng nghiên cứu viên chính, điều phối viên ADA Roy W. Beck, MD, PhD nói.

Điều này giúp làm tăng thêm sức nặng của bằng chứng và việc chuyển từ theo dõi dữ liệu sang can thiệp về phân phối insulin. iLet là giai đoạn tiếp theo cho nghiên cứu về phân phối insulin tự động. Nó đang dần trở thành tiêu chuẩn trong tương lai.

Puttanna – chuyên gia ĐTĐ ở West Midlands, Vương quốc Anh và cố vấn quốc gia của Sanofi cho NHS cho biết: “Điều này cho thấy bất kể sắc tộc, địa vị xã hội hay hoàn cảnh nào đều có thể được bình đẳng trong chăm sóc sức khoẻ.”

Ban đầu, tuyến tụy sinh học được hình thành như một hệ hormone kép sử dụng cả insulin và glucagon trong một thiết bị duy nhất để tăng cường khả năng bảo vệ chống lại tình trạng hạ đường huyết. Đó vẫn là mục tiêu cuối cùng, nhưng cho đến nay, một dạng ổn định của glucagon chỉ mới được chấp thuận để sử dụng trong trường hợp xử trí hạ đường huyết nghiêm trọng chứ không được dùng để điều trị mạn tính hàng ngày – Beck, chủ tịch – giám đốc y tế của Trung tâm Nghiên cứu Sức khỏe Jaeb, Tampa, Florida lưu ý.

“Glucagon vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Còn rất nhiều việc phải làm với FDA về mặt quản lý để xác định lượng dữ liệu an toàn cần thiết. Chưa có bất kỳ vấn đề nào được ghi nhận, nhưng vẫn cần phải thu thập nhiều dữ liệu hơn là chỉ để chứng minh rằng thiết bị này có thể hoạt động. Tuy nhiên, việc glucagon được cung cấp liên tục hàng ngày ở một mức độ nào đó sẽ mang lại hiệu quả an toàn.”, Beck giải thích.

Trong lúc này, công ty đang định hướng tới phiên bản chỉ sử dụng insulin

 

Lợi ích đã được thể hiện trên cả người lớn và trẻ em có chỉ số A1c cao

Thử nghiệm pivotal chỉ dùng insulin ở 16 trung tâm với tổng số 440 người mắc bệnh ĐTĐ tuýp 1 bao gồm cả người lớn và trẻ em từ 6 tuổi trở lên. Nghiên cứu đã so sánh tuyến tụy sinh học iLet với tiêu chuẩn chăm sóc bao gồm khoảng 1/3 trên hệ thống tụy nhân tạo hiện có; máy bơm insulin và thiết bị CGM độc lập; hoặc tiêm đa liều trên ngày với CGM.

Thử nghiệm bao gồm:

 

Người da trắng

Người da đen

Không phải gốc Tây Ban Nha

74%

10%

Gốc Tây Ban Nha hoặc La Tinh

10%

Chủng tộc khác hoặc hỗn hợp

6%

 

Phân tích chính đã so sánh iLet sử dụng insulin lispro (Humalog) hoặc insulin aspart (Novolog) với chăm sóc tiêu chuẩn ở 326 người lớn và trẻ em, trong khi đó, 114 người lớn khác ở trong một nhóm riêng biệt được so sánh iLet với insulin aspart tác dụng nhanh hơn (Fiasp) so với hai chất tương tự còn lại.

Nhìn chung ở những người tham gia có chỉ số A1c nền > 7,0%, sau 13 tuần, với iLet, chỉ số A1c trung bình giảm 0,5% so với chăm sóc tiêu chuẩn giảm 0,7%. Không có sự gia tăng hạ đường huyết và những người sử dụng thiết bị đã dành thêm trung bình 2,6 giờ trong phạm vi cho phép (mức đường huyết 70 – 180 mg/dL).

Trong số 161 người lớn dùng insulin aspart hoặc lispro, với iLet thì nồng độ A1c lúc đầu trung bình là 7,6%  giảm xuống còn 7,1% sau 13 tuần; với chăm sóc tiêu chuẩn giảm còn 7.5%, đây là một sự khác biệt đáng kể (P < 0,001). Khi dùng iLet, tỷ lệ cải thiện chỉ số A1c trên 0,5% là 43% trong khi chăm sóc tiêu chuẩn là 17%.

Nhìn chung, những người có chỉ số A1c nền cao hơn có sự cải thiện chỉ số A1c tốt hơn và được thấy ở các nhóm chủng tộc và trình độ kinh tế xã hội / giáo dục. Sau khi điều chỉnh, người lớn sử dụng iLet dành nhiều thời gian hơn 11% so với những người theo tiêu chuẩn chăm sóc (P = 0,001) trong phạm vi 13 tuần, tương ứng với 2,6 giờ / ngày.

Trong 12 tuần thời gian mà đường huyết dưới 54 mg/dL(hạ đường huyết) với nhóm sử dụng iLet là 0.33% và với nhóm chăm sóc tiêu chuẩn là 0.18%, không có sự khác biệt đáng kể (P = 0,33). Số trường hợp hạ đường huyết nghiêm trọng lần lượt là 25,5 và 14,2 trên 100 người / năm, không có sự khác biệt đáng kể (P = 0,04). Toàn bộ 30 trường hợp sử dụng iLet tăng huyết áp liên quan đến thất bại do bộ truyền dịch, chiếm 0.9% trong 3203 bộ truyền dịch.

Kết quả là giống nhau giữa 165 đối tượng trẻ em, với nhóm sử dụng iLet thì chỉ số A1c giảm từ 8.1% xuống 7.5% so với nhóm chăm sóc tiêu chuẩn thì chỉ số A1c không thay đổi là 7.8%.

Những người sử dụng iLet dành nhiều thời gian hơn 10% trong phạm vi 13 tuần, tương ứng với 2,4 giờ / ngày, so với những người chăm sóc tiêu chuẩn (P < 0.001)

Không có sự khác biệt về thời gian sử dụng dành cho dưới 54 mg/dL (P= 0.24). Ở đây, tỷ lệ thất bại là 3.0% cho 3420 bộ truyền

 

Ngạc nhiên rằng Insulin tác dụng nhanh không tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào

Đánh giá 114 người trưởng thành sử dụng Fiasp so với lispro hoặc aspart trong hệ thống cho thấy không có sự khác biệt về chỉ số A1c, đường huyết trung bình, khoảng mục tiêu hoặc các thông số khác. Điều đó có một chút ngạc nhiên, Puttanna nói.

“Đã có câu hỏi liệu Fiasp có ảnh hưởng gì không. Bệnh nhân muốn một loại insulin có tác dụng nhanh, đặc biệt là với tuyến tụy sinh học bởi vì họ muốn thuật toán giúp phân phối insulin mà không cần tính lượng Carbohydrate khi tiêm tĩnh mạch. Vậy nên, về mặt lý thuyết họ cho rằng sẽ nhận được đáp ứng nhanh hơn và gánh nặng sẽ được giảm đi. Nhưng không phải … Liệu đó là hệ thống chứ không phải là insulin, trong khi trong các hệ thống insulin hoạt động nhanh khác có thể hoạt động tốt hơn? Chúng tôi không biết,” ông nói.

Trong các cuộc khảo sát, những người trưởng thành sử dụng iLet có khả năng cao hơn đáng kể so với nhóm chăm sóc tiêu chuẩn trong việc báo cáo giảm lo lắng do ĐTĐ và nỗi sợ hạ đường huyết. Đồng thời, cha mẹ của những đứa trẻ sử dụng iLet cho biết mức độ hài lòng cao hơn khi điều trị bệnh ĐTĐ.

 

Cung cấp cho mọi người những gì họ cần 

Cuối cùng, nếu được thông qua, iLet có thể giảm đáng kể gánh nặng quản lý bệnh ĐTĐ tuýp 1 cho nhiều bệnh nhân, nhưng nó có thể không phù hợp với tất cả mọi người. Ví dụ, Beck nói, “Với một người có tính cách thích kiểm soát, có chỉ số A1c 6.5% và đã quen với việc kiểm soát những gì họ làm, đây có lẽ không phải là một hệ thống tốt khi trong trường hợp này thì hệ thống đang nắm quyền kiểm soát.

Puttanna chỉ ra rằng nếu hệ thống iLet hormone kép [insulin và glucagon] trở thành có sẵn, có thể là một lựa chọn an toàn cho những người bị hạ đường huyết nghiêm trọng hoặc hạ đường huyết không nhận biết.

Mục đích tổng thể, ông nói, “Cung cấp cho mọi người những gì họ cần. Bạn có thể tìm hiểu xem ai cần gì từ dữ liệu và mục tiêu với liệu pháp phù hợp – hormon hỗn hợp vòng kín, đơn hoặc kép hoặc có thể chỉ là một hệ thống theo dõi đường huyết liên tục (CGM) thời gian thực. ”

Và tất nhiên, ông chỉ ra, ở Hoa Kỳ, chi phí và bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc ai sẽ nhận được thiết bị nào.

Trong cuộc thử nghiệm mới nhất về một hệ thống tự động hơn 1 điều thú vị là nó cho thấy chúng ta đang đi đâu. Chúng ta đang dần đạt được [Sự tự động hóa hoàn toàn], điều này thật hấp dẫn và rất đáng khích lệ. Thật hy vọng nó mang lại nhiều yên tâm cho những người mắc bệnh ĐTĐ. ”

 

TLTK:

https://www.medscape.com/viewarticle/975060

 

Biên dịch:

Lê Thục Trinh

Kim Thị Tuyết Nhung

Lâm Thị Thúy Hằng

 

Hiệu đính:

Nguyễn Thị Minh Thúy

Ds. Trần Thị Quốc Tuyến

Chia sẻ bài viết