Khuyến cáo sử dụng thuốc chống HIV từ DHHS (NEJM keypoints)

thuoc-khang-hiv

Khuyến cáo sử dụng thuốc chống HIV từ DHHS (NEJM keypoints)

DHHS xác nhận nên nhanh chóng sử dụng ART để điều trị cho bệnh nhân HIV đồng thời cũng nên cân nhắc đến các khoảng chi phí

Hội đồng DHHS đã cập nhật hướng dẫn sử dụng ART, trong đó khuyến nghị sử dụng ART ngay tại thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán HIV hoặc càng sớm càng tốt và thảo luận về các cân nhắc chi phí, bảo hiểm và thuốc generic.

Nguồn DHHS Panel on Antiretroviral Guidelines for Adults and Adolescents — A Working Group of the Office of AIDS Research Advisory Council (OARAC). Guidelines for the use of antiretroviral agents in adults and adolescents with HIV. AIDSinfo. 2019 Dec 18. (https://www.aidsinfo.nih.gov/contentfiles/lvguidelines/adultandadolescentgl.pdf)

Tổ chức tài trợ DHHS (Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ)

Đối tượng người đọc Chuyên gia về bệnh truyền nhiễm; Nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc chính cho bệnh nhân nhiễm HIV; Các tổ chức y tế công cộng; Các tổ chức phi chính phủ; Các dịch vụ do quỹ chương trình phòng chống HIV/AIDS của Ryan White hỗ trợ.

Giới thiệu

Ngày 18/12/2019, hội đồng DHHS đã cập nhật bảng hướng dẫn sử dụng ART (liệu pháp kháng Retrovirus) cho người lớn và thanh thiếu niên bị nhiễm HIV-1, nhằm đưa ra định hướng sử dụng ART cho các cơ quan liên bang, tiểu bang và địa phương, cũng như cho hệ thống y tế, các công ty bảo hiểm và các bác sĩ lâm sàng.

Khuyến cáo chính

Khuyến cáo 1: Nhanh chóng sử dụng ART ngay tại thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán HIV hoặc càng sớm càng tốt.

Khuyến cáo 2: Chứng thực khái niệm “điều trị như phòng ngừa”: ở bệnh nhân nhiễm HIV, sử dụng ART (thuốc kháng Retrovirus) để duy trì tải lượng virus HIV <200 bản sao/mL trong máu sẽ  giúp ngăn ngừa lây truyền HIV qua đường tình dục. Lưu ý: “điều trị như phòng ngừa” chỉ áp dụng duy nhất cho lây truyền HIV qua đường tình dục, không có tác dụng ngăn ngừa việc mắc phải hoặc lây lan của các bệnh lây truyền khác cũng qua đường tình dục.

Khuyến cáo 3: DTG (Dolutegravir) là một lựa chọn thay thế ART cho phụ nữ tại thời điểm thụ thai.

Khuyến cáo 4: Xét nghiệm Lipid và Glucose không cần nhịn ăn là lựa chọn lúc ban đầu và để theo dõi.

Khuyến cáo 5: Ưu tiên sử dụng phác đồ DTG/3TC (Dolutegravir/Lamivudine) cho bệnh nhân nhiễm HIV, ngoại trừ đối với bệnh nhân có tải lượng virus >500.000 bản sao/mL, bệnh nhân đồng nhiễm bệnh viêm gan B hoặc chưa xác định rõ được có bị nhiễm bệnh viêm gan B hay không, bệnh nhân đang điều trị bằng ART trước khi có kết quả xét nghiệm kiểu gene HIV.

Khuyến cáo 6: BIC/TAF/FTC (Bictegravir/Tenofovir Alfenamide/Emtricitabine) là một lựa chọn điều trị thay thế cho những mới người bị nhiễm HIV hoặc đã nhiễm HIV cấp tính trước khi có kết quả xét nghiệm kiểu gen kháng thuốc.

Khuyến cáo 7: Sử dụng phác đồ điều trị ngắn hạn cho bệnh nhân nhiễm trùng lao tiềm ẩn.

Khuyến cáo 8: Tránh sự tương tác giữa ARV với Rifampin và Rifapentine.

Các sửa đổi

  • Mối lo ngại về việc sử dụng Dolutegravir cho phụ nữ vào thời điểm thụ thai đã thấp hơn, nhưng vẫn còn tồn tại.
  • Nhấn mạnh sự hợp tác giữa các chuyên gia HIV, bác sĩ lão khoa và các chuyên gia khác trong việc chăm sóc người cao tuổi nhiễm HIV, tập trung vào các vấn đề như dùng nhiều thuốc, sức khỏe tâm thần và rối loạn nhận thức thần kinh.
  • Bổ sung thêm một cuộc thảo luận về chia sẻ chi phí khám chữa bệnh sẽ ảnh hưởng như thế nào lên chi phí mà các bệnh nhân phải tự trả với các loại bảo hiểm khác nhau, bao gồm một bảng tóm tắt hệ thống giá cả liên quan đến ART.
  • Bổ sung thêm một bản mô tả chi tiết hơn về so sánh chi phí giữa phác đồ ART sử dụng thuốc brand-name (biệt dược gốc) so với phác đồ ART sử dụng thuốc generic – loại thuốc ngày càng phổ biến, thường cần sử dụng nhiều thuốc hơn hàng ngày.

Chú thích:

  • Retrovirus là những virus có cơ chế chèn bản sao bộ gen RNA của chúng vào bộ gen DNA của các tế bào mà chúng xâm nhập, dẫn đến làm thay đổi bộ gen của các tế bào này. Một số Retrovirus như: HIV (Human Immunodeficiency Virus), BLV (Bovine Leukemia Virus), MLV (Murine leukemia virus),…
  • Điều trị như phòng ngừa có nghĩa là Điều trị cho những người nhiễm HIV có thể làm giảm sự lây truyền HIV qua đường tình dục trên quy mô dân số. Khái niệm này được đề xuất vào năm 2006 tại Hội nghị AIDS Quốc tế, tổ chức ở Toronto. Chúng ta biết rằng điều trị HIV có thể làm giảm tải lượng virus trong máu của người nhiễm. Ý tưởng là nếu đủ số người sống chung với HIV trong cộng đồng được chẩn đoán và điều trị thành công, thì kết quả là lượng virus HIV trung bình lưu hành trong cộng đồng sẽ giảm. Điều này có thể dẫn đến việc lây truyền HIV trong cộng đồng sẽ ít hơn.

Lưu ý: “Điều trị như phòng ngừa” không tập trung vào các nỗ lực phòng ngừa cho cá nhân mà hướng tới một cách tiếp cận tập trung vào việc giảm số lượng ca nhiễm HIV mới trong toàn bộ cộng đồng. Điều này là do việc điều trị HIV không thực sự loại bỏ hoàn toàn virus ra khỏi cơ thể người bệnh, nghĩa là nguy cơ lây truyền HIV từ người này sang người khác chỉ có khả năng giảm chứ không thể loại bỏ được. Do đó, ở cấp độ cá nhân, việc giảm nguy cơ lây truyền bằng “điều trị như phòng ngừa” không đủ để thay thế các phương pháp phòng ngừa thông thường, chẳng hạn như dùng bao cao su để quan hệ tình dục hoặc sử dụng kim tiêm sạch.

Bàn luận:

Nhn xét ca Bác sĩ Henry, giáo sư Y khoa ti Trường Y Đại hc Minnesota và Giám đốc Nghiên cu Lâm sàng HIV ti Trung tâm Y tế Ht Hennepin.

DHHS, WHO và IAS-USA đã cùng nhau tán thành việc nhanh chóng sử dụng ART ngay sau khi bệnh nhân được chẩn đoán HIV. Hy vọng rằng, các nhà tài trợ và hệ thống chăm sóc có thể cung cấp thêm các hỗ trợ tài chính và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động này, điều mà thường kéo dài từ 2 đến 3 giờ tại phòng khám nếu thuốc có sẵn và một nhóm các nhà cung cấp sức khỏe. Khi được thực hiện tốt, việc bắt đầu nhanh chóng sử dụng ART có vẻ là quan trọng để cải thiện hơn nữa kết quả chăm sóc người nhiễm HIV; liệu nếu không có kế hoạch và hỗ trợ thích hợp thì các hiệu quả tương tự vẫn có thể đạt được hay không thì vẫn chưa biết được. Thảo luận về chi phí là một bổ sung đáng hoan nghênh để hỗ trợ việc ra quyết định lâm sàng khi đối mặt với sự phức tạp ngày càng tăng của chi phí ART. Nhận thức rõ hơn về những thách thức trong việc chăm sóc cộng đồng người già nhiễm HIV là rất hữu ích để kích thích phát triển các chương trình cho những bệnh nhân này.

 

Nguồn: NEJM journal watch

Dịch: Nguyễn Thái Minh Trận, TS. Võ Đức Duy

Chia sẻ bài viết